Cá cóc Việt NamCác quần xã lưỡng cư ở Việt Nam, đặc biệt là ếch, cóc, nhái rất đa dạng, năm 1999 ghi nhận 100 loài, vào cuối năm 2004 tổng số loài đã tăng lên hơn gấp rưỡi số lượng loài đã biết, khoảng 250 loài. Hầu hết tất cả những loài mới được mô tả này đều có phân bố từ các khu vực rừng thường xanh ẩm cận núi và trên núi ở miền Bắc Việt Nam và dọc theo dãy Trường Sơn. Có 15 loài lưỡng cư vào loại bị đe dọa toàn cầu như:
Ở Việt Nam, ếch nhái là nhóm có số lượng loài lớn nhất (55 loài) và đa dạng nhất về hình thái và các tập tính sinh sản. Các loài thuộc họ này có thể sống trên cạn, trên cây, sống dưới nước, hoặc trong hang và chúng có thể sinh sản trong các dòng suối chảy xiết, chảy chậm, các vũng nước, hoặc vùng nước tù. Một số loài đặc trưng ở Việt Nam có thể kể đến
- Ếch cỏ sống dưới nước (Rana graminae) ở miền Bắc Việt Nam, con cái có thể có chiều dài lên đến gần 9,4 cm, trong khi đó con đực có chiều dài ngắn hơn 4,6 cm. Kích thước nhỏ của con đực ở loài này có thể được chọn lọc vì tập tính kết đôi của chúng.
- Ếch bám đá (chi Amolops) cũng sống và sinh sản trong các vùng nước chảy xiết ở các vùng núi miền Bắc và miền Trung của Việt Nam.
- Ếch Hatchê (Limnonectes hascheanus), không cần nước để sinh sản. Thay vì đó, con đực đào các lỗ trên nền đất bùn trong rừng nơi con cái (thu hút con đực bằng tiếng kêu) đẻ trứng.
- Đến nay hơn 15 loài có nguồn gốc chưa rõ ràng trong nhóm loài ếch Rana livida đã được phát hiện từ miền Đông Ấn Độ đến Nam Trung Quốc, lục địa Đông Nam Á và các đảo ở vùng thềm lục địa Sunda.
- Ngoé (Fejervarya limnocharis)
- Ếch đồng (Hoplobatrachus chinensis)
- Ếch Blythi (Limnonectes blythii).
- Ễnh ương Đông Dương (Kaloula indochinensis): Ở Việt Nam, loài Ễnh ương đông dương hiện ghi nhận phân bố ở các tỉnh Gia Lai và Đồng Nai. Đây là loài ễnh ương thứ ba ghi nhận ở Việt Nam
- Ễnh ương nâu (Kaloula baleata) phân bố của loài này khá rộng, từ Philippine đến Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
- Ễnh ương thường (Kaloula pulcha)
- Ễnh ương vạch (Kaloula mediolineata).
- Ếch gai đổi màu (Graciaxal lumarius)
- Cá cóc Ziegler (Tylototriton ziegleri): phân bố ở Lào Cai, Cao Bằng và Hà Giang.
- Cóc núi Botsford (Leptolalax botsfordi): Loài ếch nhái nhỏ bé với chiều dài cơ thể khoảng 30 mm, được phát hiện ở độ cao hơn 2800 m gần đỉnh Fansipan, đỉnh núi cao nhất Đông Dương, thuộc địa bàn tỉnh Lào Cai. Đây có thể là loài có vùng phân bố hẹp vì hiện chỉ ghi ở các con suối nhỏ dưới tán rừng thường xanh thuộc Vườn Quốc gia Hoàng Liên.
- Cóc núi Sterling (Oreolalax sterlingae): Có kích thước trung bình, con đực có chiều dài cơ thể khoảng 37 mm, con cái khoảng 45 mm, ở độ cao 2900 m gần đỉnh Fansipan, tỉnh Lào Cai.
- Nhái cây wa-za: khu vực núi đá vôi ở khu vực huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.
Ếch cây bay Rhacophorus reinwardtii
Việt Nam có 43 loài ếch cây, trên thực tế có số lượng ít hơn ếch nhái. Chúng rất thích nghi sống trên cây, các đĩa dính lớn trên ngón chân cho phép chúng trèo trên các bề mặt dựng đứng và bám vào các cành cây. Cả chân trước và chân sau đều có màng, đôi khi rộng, và những loài này thường có cơ thể bẹt và có các nếp da nằm ở chân. Các mẫu ếch cây ở Việt Nam được thấy ở các cánh rừng nằm ở vùng đất trũng ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Ninh Bình, Quảng Bình, Bình Thuận, Đồng Nai, các loài ếch này đang có nguy cơ tuyệt chủng do mất môi trường sống và sự xâm lấn của con người[46].
Chi ếch cây Rhacophorus là nhóm ếch gồm các loài thường sống trên cây. Chúng là những loài có nhiều màu sắc đẹp kỳ diệu nhất trong lớp lưỡng cư ở Việt Nam[47].
- Ếch cây lớn (Rhacophorus maximus): ở vùng núi Yên Tử. Thân màu xanh lá cây với sọc trắng chạy dọc hai bên sườn và màu kem pha sắc dưới bụng và màng bơi. Loài ếch này cũng rất được ưa chuộng làm sinh vật cảnh.
- Ếch cây Dugitơ (Rhacophorus dugritei) đẻ trứng khi những cơn mưa đầu mùa tháng tư đổ xuống và những cơn gió mạnh nhằm duy trì nòi giống và chuẩn bị chống chọi với cái lạnh giá của mùa đông ở Fanxipan. Đây là loài ếch cây sống ở độ cao nhất trong vùng Đông nam Á.
- Ếch cây Hoàng liên (Rhacophorus hoanglienensis): Phát hiện năm năm 2001, phân bố ở Vườn quốc gia Hoàng Liên.
- Ếch cây Chư Yang Sin (Rhacophorus calcaneus) là một loài mới được phát hiện năm 2008 trên độ cao 2.200m ở Vườn quốc gia Chư Yang Sin và Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà. Chúngsắc màu tuyệt đẹp giữa hai màu vàng, nâu đậm, con ngươi mắt đen, đỏ, mí mắt màu xanh rất đặc trưng.
- Ếch cây xanh đốm (Rhacophorus dennysi): Màu xanh biếc với mặt bụng trắng với những đốm màu đen không đồng nhất, bàn chân đầy giác bám để giúp chúng có khả năng chuyên cành tìm kiếm thức ăn và thu hút bạn tình. Là loài giỏi leo trèo trong các loài lưỡng cư ở Việt Nam và loài ếch cây này còn là một trong những vận động viên nhảy xa tuyệt vời.
- Ếch cây cựa (Rhacophorus robertingeri): Loài được xem như là nhỏ nhất trong nhóm ếch cây ở Việt Nam này có hai cựa nhọn hoắt ở sau đùi. Chúng thích những nơi nhiều bóng râm đặc biệt là các khu rừng có nhiều suối nhỏ với lớp phủ thực vật rậm rạp gồm dương xỉ, cọ bị quấn nhiều dây leo và thực vật phụ sinh.
- Ếch cây Kio (Rhacophorus kio) Giống với loài loài ếch cây xanh đốm, nhưng bụng có màu vàng và một chấm đen rõ nét ở nách của chân trước. Loài này thưởng sống ở độ cao trung bình nơi có nhiều những dòng thác chảy và độ ẩm khá cao. Đôi khi ta có thể tìm thấy chúng ở các khu rừng phục hồi ở Việt Nam.
- Ếch cây màng bơi đỏ (Rhacophorus rhodopus): Đỏ rực như những quả mọng chín trong rừng, màu đỏ rực của chúng thêm phần hấp dẫn đối với cô nàng ếch cái chờ đợi đâu đó ở mốt nhánh cây khác.
- Ếch cây Orlovi (Rhacophorus orlovi): thuộc vùng Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Đây là loài đặc hữu ở Việt Nam mặc dù có kích thước nhỏ, nhưng loài ếch cây này với sắc màu pha trộn giữa xanh, đen, trắng và nâu nhạt
- Ếch cây mép da mông mới được ghi nhận vùng phân bố thứ 2 ở Việt Nam, thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Ếch cây xanh Helen (Rhacophorus helenae): ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Núi Ông (Bình Thuận) và Vườn Quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai) ở độ cao chỉ dưới 200 m so với mực nước biển. Loài ếch này có màu xanh lá cây, tay và chân có màng bơi rộng với các đĩa bám lớn ở đầu ngón giúp cho chúng bám chặt và ẩn mình trong các đám lá cây rậm rạp, ghi nhận ở các khu rừng thường xanh trên núi đất thấp ở miền Nam Việt Nam.